Tính đến đầu năm 2024, dư nợ tín dụng xanh ước đạt 500
nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 4,5% tổng dự của cả nền kinh tế Việt Nam. Dự báo
nhu cầu về tín dụng xanh trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam chắc chắn sẽ tiếp
tục phát triển mạnh mẽ, khi các vấn đề về môi trường ngày càng được chú trọng.
Tín dụng xanh là hình thức cung cấp vốn cho các dự án, doanh nghiệp hoặc hoạt
động có lợi cho môi trường, chẳng hạn như năng lượng tái tạo.
Trong bối cảnh hiện nay, khi biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đang trở
thành những vấn đề cấp bách, tín dụng xanh nổi lên như một giải pháp tài chính
nhằm thúc đẩy các dự án thân thiện với môi trường.
Theo một số chuyên gia, tín dụng xanh là hình thức cung cấp vốn cho các dự
án, doanh nghiệp hoặc hoạt động có lợi cho môi trường, chẳng hạn như năng lượng
tái tạo, nông nghiệp bền vững, và xử lý chất thải.
Tín dụng xanh đồng nghĩa với các khoản vay xanh dùng để tài trợ hoặc tái
tài trợ một phần hoặc toàn bộ các dự án xanh. Các khoản vay xanh có thể là các
khoản vay có kỳ hạn hoặc các khoản vay tuần hoàn. Các khoản cấp tín dụng xanh sẽ
đi kèm các ưu đãi về lãi suất, ưu đãi thuế và các điều kiện công bố thông tin về
môi trường và được áp dụng theo hoàn cảnh cụ thể.
Tại Việt Nam, hoạt động tín dụng xanh cũng đã được triển khai thực hiện
trong những năm gần đây và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trong nhiều
lĩnh vực, bao gồm tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo, nông nghiệp sạch và
nông nghiệp công nghệ cao.
Thống kê sơ bộ cho thấy, tính đến đầu năm 2024, dư nợ tín dụng xanh ước đạt
500 nghìn tỷ đồng chiếm khoàng 4,5% tổng dự của cả nền kinh tế Việt Nam. Trong
đó, có 43/49 ngân hàng thương mại tham gia cấp tín dụng xanh tính đến ngày
30/9/2023 với số dư nợ tương tương 22,56 tỷ USD.
Mặc dù sự phát triển của thị trường tín dụng xanh tại Việt Nam trong những
năm gần đây đã có những bước khởi động tích cực do nhận được sự hỗ trợ từ Chính
phủ, các cơ quan ban, ngành, tổ chức tài chính quốc tế... Tuy nhiên, theo các
chuyên gia tài chính quá trình phát triển hoạt động tín dụng xanh vẫn còn một số
rào cản nhất định.
Theo đó, các quy định, định nghĩa cụ thể về các danh mục, ngành lĩnh vực
xanh vẫn chưa được thống nhất để có thể áp dụng chung trên cả nước; các chính
sách hỗ trợ phát triển tín dụng xanh giai đoạn vừa qua chưa giải quyết được vấn
đề nguồn vốn cho các ngân hàng thương mại thực hiện tín dụng xanh; nhận thức và
năng lực của các tổ chức tín dụng trong phát triển các sản phẩm tín dụng xanh mới
ở bước đầu và còn hạn chế...
Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu - Chuyên gia tài chính - ngân hàng, để thúc đẩy
tín dụng xanh tại Việt Nam, cần có một định nghĩa rõ ràng về môi trường xanh, từ
đó việc định lượng này cần có tiêu chí rõ ràng. Ngoài ra, nên có một cơ quan để
định lượng các tiêu chí này. Hiện tại, chúng ta vẫn thiếu những cơ quan có khả
năng lượng hóa việc cải tạo môi trường để đo lường hiệu quả của dự án. Đây là yếu
tố cơ bản nhất để hỗ trợ tín dụng xanh, tức là phải đo lường được kết quả của
việc cải tạo môi trường.
Chuyên gia này cũng cho rằng, cần đẩy mạnh tuyên truyền và nâng cao nhận thức
về tín dụng xanh cho các doanh nghiệp và ngân hàng thông qua các hội thảo, khóa
đào tạo, và chương trình truyền thông. Bản thân doanh nghiệp cần chú trọng đầu
tư vào công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo đó, cần đẩy mạnh
hợp tác với các tổ chức quốc tế và các trường đại học hàng đầu để tiếp cận được
các công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quý báu trong lĩnh vực này.
Đồng thời, nhằm thúc đẩy tín dụng xanh, cần có các chính sách hỗ trợ mạnh mẽ
hơn từ phía Chính phủ, chẳng hạn như giảm thuế, hỗ trợ lãi suất, và tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn xanh.
Nguồn: tapchitaichinh.vn